Thứ Tư, 28 tháng 5, 2014

An Nam tứ đại khí

An Nam tứ đại khí[1], là bốn kỳ quan, bốn vật quốc bảo và là bốn công trình nghệ thuật bằng đồng nổi tiếng của văn hóa thời ,Trần bao gồm:
Mặc dù đều là những vật quốc bảo song khi giặc Minh sang xâm chiếm nước ta, tứ đại khí đều bị cướp hoặc phá huỷ để lấy đồng đúc vũ khí và nhằm làm mất đi một phần "nguyên khí" của người Việt.

Vạc Phổ Minh

Vạc Phổ Minh là một chiếc vạc bằng đồng được đúc vào năm 1262 bởi thượng hoàng Trần Thái Tông, nhà Trần Việt Nam, và đã đặt tại phủ Thiện Trường (nay là Nam Định). Vạc Phổ Minh là một trong An Nam tứ đại khí.
Vạc được đúc vào tháng 2 năm Nhâm Tuất (1262) đời Trần Thánh Tông, nhân dịp Trần Thái Tông (lúc đó là Thượng hoàng) về chơi Tức Mặc (nay thuộc về tỉnh Nam Định). Tại đây, Trần Thái Tông đã ban yến cho dân làng. Các hương lão từ 60 tuổi trở lên được ban tước hai tư, lão bà thì được hai tấm lụa. Nhân đấy, đổi Tức Mặc làm phủ Thiên Trường. Dựng cung Trùng Quang để các vua sau khi đã nhường ngôi về ở; lại dựng một cung riêng gọi là cung Trùng Hoa cho Tự quân (vua mới) khi đến chầu Thượng hoàng thì ngự ở đó. Đặt người chức dịch ở hai cung ấy để phòng khi sai khiến, hầu hạ và chức lưu thủ để trông coi. Phía Tây cung Trùng Quang dựng chùa Phổ Minh. Tại đây cho đúc một chiếc vạc lớn và khắc bài minh vào vạc. Tương truyền, miệng vạc dày và rộng đến nỗi hai người có thể chạy nhảy và đi lại trên đó.
Cùng với chuông Quy Điền, tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) khi bị vây ở Đông Quan, Vương Thông đã cho phá vạc Phổ Minh để lấy đồng đúc vũ khí.

Chuông Quy Điền

Chuông Quy Điền (chuông ruộng rùa) là một quả chuông được xếp vào An Nam tứ đại khí, bảo vật của Đại Việt thời Lý.
Canh ThânAnh Vũ Chiêu Thắng năm thứ 5 [1080], (Tống Nguyên Phong năm thứ 31). Mùa xuân, tháng 2, đúc chuông lớn cho chùa Diên Hựu. Chuông đúc xong, đánh không kêu, nhưng cho rằng nó đã thành khí, không nên tiêu hủy, bèn đem bỏ ở Quy Điền [ruộng rùa] của chùa. Ruộng ấy, thấp ướt, có nhiều rùa, người bấy giờ gọi là chuông Quy Điền.
—Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Toàn Thư, Quyển III, Kỷ Nhân Tông Hoàng đế
Tương truyền, vua Lý Nhân Tông đã cho sử dụng đến 12.000 cân đồng (tương đương với 7,3 tấn đồng bây giờ) để đúc chuông.
Tháng 10 năm Bính Ngọ (1426), nước Đại Ngu bị nhà Minh xâm chiếm. Chuông Quy Điền đã bị Vương Thông cho phá hủy để chế súng đạn, hỏa khí.[1]

Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm

Chùa Quỳnh Lâm có hai pho tượng lớn nổi tiếng được đúc vào hai thời kỳ khác nhau. Một pho thời Lý do sư Nguyễn Minh Không cho đúc, và pho thứ hai thời Trần do thiền sư Pháp Loa tạo dựng. Pho tượng được liệt trong Thiên Nam tứ đại khí theo nhiều ý kiến có lẽ là pho được đúc vào thời Lý. Theo lịch sử thì nhà sư có công xây dựng chùa Quỳnh Lâm đầu tiên là sư Minh Không
Truyền thuyết kể rằng, khi đúc pho tượng khổng lồ ở chùa Quỳnh Lâm, sư Minh Không đã dùng một cái túi lớn để thu gom đồng ở Trung Quốc đem về nước đúc nên các vật kim loại lớn. Theo các tài liệu còn lại thì pho tượng Phật Di Lặc ở chùa Quỳnh Lâm thời Lý cao 6 trượng (một trượng xấp xỉ 3,3 m, tức là pho tượng cao khoảng 20 m). Các tượng đồng cổ ở Việt Nam được coi là lớn nhất hiện nay: Tượng thánh Trấn Vũ đền Quán Thánh, Hà Nội đúc năm 1667 cao 3,7 m nặng 4 tấn; tượng phật A Di Đà chùa Ngũ Xã, Hà Nội đúc năm 1949 - 1952 cao 3,95 m, nặng hơn 10 tấn; tượng A Di Đà lớn nhất còn lại ở Quảng Ninh ở chùa Nhuệ Hổ, Đông Triều cao 1,45 m, đúc thời Lê. Chỉ có điều không còn cứ liệu để ước định tượng nặng bao nhiêu. 
Pho tượng lớn đến nỗi người ta phải xây dựng một tòa điện cao 7 trượng (khoảng 23,5 m) để đặt tượng. Chính vì chiều cao, độ lớn của tượng và điện chứa tượng nên tục truyền rằng, đứng phía nam huyện Đông Triều, cách chùa Quỳnh Lâm ước chừng 10 dặm, vẫn còn thấy nóc điện che sát đầu pho tượng. 
Trong dân gian còn lưu truyền câu ca: Nức tiếng Quỳnh Lâm cõi xứ Đông - (....) - Tháp cao chín đợt màu mây ám - Chùa rộng trăm gian gác ngựa hồng - Trước điện thông reo cùng trúc hóa - Trong am khánh đá với chuông đồng... 
Chắc hẳn trong câu ca này hàm ý đến tòa điện đặt pho tượng khổng lồ trên. Sau đó không rõ tượng mất khi nào, có thể tượng bị mất cùng với ba thứ kim khí lớn khác khi quân Minh xâm lược nước ta. Ý kiến khác cho rằng, tượng bị mất từ khi quân Nguyên Mông sang xâm chiếm nước ta bởi vì sau đó sư Pháp Loa cho đúc một pho tượng lớn tương tự.
Pho tượng Phật lớn thứ hai của Quỳnh Lâm cũng là tượng Di Lặc được thiền sư Pháp Loa - ông tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm, cho đúc. Tượng được đúc xong từ năm 1327. Năm 1328, nhân dịp vua Trần Minh Tông đến thăm chùa, sư Pháp Loa đã tâu xin cho kéo tượng từ điện lên bảo tọa để dát vàng. 
Văn Huệ Vương Trần Quang Triều, chủ soái của Bích Động thi xã và người chị ruột, công chúa Thượng Trân, vợ vua Trần Anh Tông đã cúng vào chùa 900 lượng vàng để đúc tượng. Tượng cũng bị mất vào thế kỷ 15 khi quân Minh sang xâm chiếm nước ta, chúng đã phá tượng để đúc súng đạn. Truyền thuyết dân gian nói rằng, giặc mang tới 24 bễ đến định thổi đồng đúc đạn nhưng thổi không được, còn bia chùa thì ghi tượng trầm trầm tại hạ (chìm dần xuống đất).
Hai pho tượng đồng lớn thời Lý, Trần không những chứng tỏ trình độ đúc đồng đạt đến đỉnh cao mà còn nói lên những hoài bão to lớn của người Việt trong việc xây dựng những công trình lớn.

LỊCH SỬ CHÙA QUỲNH LÂM
Theo các nhà nghiên cứu, qua các tài liệu thư tịch, trong đó có cả bia chùa thì chùa Quỳnh Lâm được xây dựng dưới triều vua Lý Thần Tông (1127-1138).[1] Người có công lớn trong việc tạo dựng ngôi chùa là quốc sư Nguyễn Minh Không (1076-1141).[2][3] Trong các thế kỷ 11-14, thời kỳ cuối Lê và thế kỷ 17-18, Quỳnh Lâm là trung tâm Phật giáo lớn nhất của Việt Nam.
Vào thời Lý, nhà sư Minh Không đã cho đúc một pho tượng Di Lặc bằng đồng cao sáu trượng (khoảng 20 m) từng được coi là một trong An Nam tứ đại khí[4][5] và một tấm bia đá lớn cao 2,5 m, rộng 1,5 m với hoa văn hình rồng uốn lượn mềm mại. Nhưng chùa Quỳnh Lâm thực sự trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng trong thế kỷ 14 với hoạt động của Pháp Loa Đồng Kiên Cương, vị tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm.
Trên cơ sở chùa Quỳnh Lâm cũ, tháng 12 năm 1317, Pháp Loa cho xây dựng và thành lập viện Quỳnh Lâm với các kiến trúc đồ sộ và hoàn chỉnh. Được sự ủng hộ rất lớn của nhà vua và các giới quý tộc, Pháp Loa đã cho xây dựng và mở mang nhiều chùa tháp. Riêng năm 1314 ông cho xây dựng 33 cơ sở điện thờ Phật, gác chứa kinh... Chính trong thời kỳ này trên cơ sở chùa Quỳnh Lâm cũ, năm 1316 Pháp Loa cho thành lập Quỳnh Lâm viện - trường đại học Phật giáo đầu tiên ở nước ta. Những năm cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, cùng với chùa Hoa Yên ở Yên Tử, chùa Báo Ân ở Siêu Loại (Bắc Ninh), chùa Thanh Mai ở Hải Dương, thiền viện Quỳnh Lâm do Pháp Loa trụ trì là một trong những trung tâm giáo hội Trúc Lâm thời Trần. Vào năm 1329, Quỳnh Lâm trở thành Đệ nhất danh lam cổ tích của nước Nam. Đây là trung tâm truyền kinh giảng đạo và đào tạo hàng ngũ sư sãi cho đạo Phật. Nhiều hội lớn có tiếng trong sử sách được tổ chức tại đây như hội ”Thiên Phật bảy ngày, bảy đêm” (1325). Tương truyền viện có thể thu nhận tới ba nghìn người một lúc. Lại có am Bích Động để tọa thiền. Một phò mã họ Vũ đời Trần cúng 20 mẫu ruộng. Quan tư đồ Văn Huệ Vương Trần Quang Triều và công chúa Thượng Trân cúng 900 lượng vàng để đúc tượng Di-Lặc. Chùa sở hữu tới hơn nghìn mẫu ruộng, tá điền đến hàng nghìn người.
Năm 1319, Pháp Loa đã kêu gọi tăng nhân và phật tử chích máu in hơn 5.000 quyển kinh Đại Tạng cất giữ ở Quỳnh Lâm viện. Pháp Loa cũng đã cho san khắc nhiều bộ kinh luật tại chùa Vĩnh Nghiêm để phục vụ việc truyền giảng, lưu hành giáo lý. Sau này chính sách “hoại thư” của nhà Minh khiến các mộc bản bị tiêu hủy vào đầu thế kỷ XV. Các bản kinh ở chùa Vĩnh Nghiêm may mắn hơn còn lại đến ngày nay. Năm 1328, ông lại cho đúc một pho tượng Di Lặc. Sau đó ông tâu xin nhà vua cho được kéo tượng từ nền điện lên bảo tọa để dát vàng. Năm 1329, Pháp Loa cho đem theo một phần tro hài cốt của Trần Nhân Tông, vị tổ thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm về đặt trong tháp đá ở Quỳnh Lâm.
Tháp Báo Thiên: bài trước.

Tháp Báo Thiên và lịch sử đau thương

Tháp Báo Thiên còn gọi là Đại Thắng Tư Thiên Tháp, được xây năm 1057 ở chùa Sùng Khánh, trong phạm vi chùa Báo Thiên, nay là khu đất mé đông hồ Hoàn KiếmHà Nội. Tháp này cao đến 20 trượng, có tất cả 12 tầng. Tầng trên cùng bằng đồng, những tầng dưới bằng đá và gạch.
Tháp được xếp vào một trong An Nam tứ đại khí, bốn vật báu của đất nước, mà ba (kiến trúc điêu khắc) quý giá khác là chùa Quỳnh Lâmvạc Phổ Minh và chuông Quy Điền.

Lịch sử

Tháp Báo Thiên đã được hai danh sĩ Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án viết như sau trong sách Tang Thương Ngẫu Lục:
Cây "Tháp Đại Thắng Tư Thiên" tại chùa Báo Thiên dựng từ đời vua Lý Thái Tông (1054-1072). Tháp này xây 12 tầng, cao mấy chục trượng… Khoảng năm Tuyên Đức nhà Minh, Đức Thái Tổ Hoàng đế tiên triều [Lê Lợi] tiến binh vây Đông Đô. Viên quan giữ thành là Thành-sơn-hầu Vương Thông phá hủy cây tháp [lấy vật liệu] chế ra sung đồng để giữ thành [1414]. Tiên triều nhân nền cũ, đắp các núi đất phủ lên trên … Năm Giáp dần [1791] lại cho đào lấy những gạch đá ở nền tháp cũ để tu bổ thành lũy Thăng Long. Khi phá nền tháp thấy có tám pho tượng Kim Cương chia ra đứng bốn cửa, ngoài ra còn có tượng người tiên, chim muông, cả đến những giường ghế, chén bát, các thứ lặt vặt khác không kể xiết, toàn bằng đá.

Kiến trúc

Sử ghi tháp cao 20 trượng chia thành 12 tầng. Đỉnh tháp bằng đồng.[1] Thân tháp được xây bằng những hòn gạch hoa khắc những chữ Lý gia đệ tam đế, Long thụy Thái Bình [1054-1058], tứ niên tạo tức là "Đúc năm thứ tư niên hiệu Long thụy Thái Bình đời vua thứ ba triều nhà Lý".

Tháp Báo Thiên trong thi văn

Phạm Sư Mạnh (thế kỷ 14), người Hải Dương, tiến sĩ đời vua Trần Minh Tông [1314-1329], đã làm bài thơ như sau về Tháp Báo Thiên:
ĐỀ THÁP BÁO THIÊN
Trấn áp đông tây củng đế kỳ
Khuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy
Sơn hà bất động kình thiên bút
Kim cổ nam ma lập địa chùy
Phong bãi chung linh thời ứng đáp
Tinh di đăng chúc dạ quang huy
Ngã lai dục tủy đề thi bút
Quản lãnh xuân giang tác nghiễn trì.
Bản dịch
Trấn áp đông tây giữ đế kỳ
Một mình cao ngất tháp uy nghi
Chống trời cột trụ non sông vững
Sừng sững ngàn năm một đỉnh chùy
Chuông khánh gió đưa vang đối đáp
Đèn sao đêm đến rực quang huy
Đến đây những muốn lưu danh tính
Mài mực sông xuân viết ngẫu thi.

Nguồn: http://www.reds.vn/index.php/lich-su/ho-so-tu-lieu/5019-lich-su-dau-don-cua-chua-bao-thien
Báo Thiên Tự, tên đầy đủ là Sùng Khánh Báo Thiên Tự, từng là một ngôi chùa cổ kính, tráng lệ, đồ sộ vào bậc nhất Việt Nam. Chùa tọa lạc tại thôn Tiên Thị, huyện Thọ Xương, (xưa gọi là phường Báo Thiên), gần hồ Lục Thuỷ (hồ Gươm), bên ngoài thành Thăng Long. Khu vực này ngày nay là phố Nhà Chung, nơi có Nhà thờ Lớn Hà Nội, Tòa khâm sứ cũ, cùng nhiều trụ sở Công giáo khác.
Bài viết của Tác giả Lê Quang Vịnh, nguyên Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ.
Ở Hà Nội, phía Tây hồ Hoàn Kiếm, dọc theo trục Bắc Nam, có 1 đường phố ngắn (chỉ 300m) phía Bắc tiếp nối với phố Lý Quốc Sư, phía Nam đụng với phố Trường Thi, nằm gọn trog phường Hàng Trống thuộc quận Hoàn Kiếm, mang tên Phố Nhà Chung, thời Pháp thuộc gọi là Rue de la Mission (phố Hội Truyền Giáo hoặc phố Hội Thừa Sai).
Trên đường phố này xúm xít những cơ sở Công giáo như Nhà Thờ Lớn, Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội , trụ sở của Hội đồng Giám mục Giáo hội Công giáo Việt Nam và mấy cơ sở bên “lương” như Câu lạc bộ Thanh thiếu niên [1] Hoàn Kiếm, Trung tâm ngoại ngữ Đại học Sư phạm… tiếp giáp với ngôi chùa cổ danh tiếng trong sử sách vẫn ghi là “Đền” Lý Quốc Sư [2].
Thời tôi còn công tác ở Ban Tôn giáo Chính phủ, tôi đã nhiều lần đến thăm chùa và nghe vị sư trụ trì [3] chùa Lý Quốc Sư kể chuyện, đưa cho đọc những tư liệu quí giá mà nhà chùa vẫn còn lưu giữ được về khu đất bên cạnh chùa. Thật bất ngờ cho tôi khi đọc thấy những chứng tích rằng toàn bộ khu đất ấy, ngày nay gọi là Phố Nhà Chung (Công giáo), ngày xưa là khuôn viên 1 ngôi chùa (Phật giáo) cổ kính, tráng lệ, đồ sộ vào bậc nhất nước ta.
Chùa đó có tên gọi tắt là Báo Thiên Tự, gọi đầy đủ là Sùng Khánh Báo Thiên Tự; trong sân chùa có một ngôi bảo tháp cao vòi vọi (12 tầng), cao đến mức bóng tháp soi xuống mặt nước hồ [4] Hoàn Kiếm. Tháp này có tên gọi là Đại Thắng Tư Thiên Tháp, gọi tắt là Báo Thiên Tháp.
Báo Thiên Tự được khởi công xây dựng từ năm 1056 [5] (đời vua Lý Thánh Tông), đúc 1 quả đại hồng chung nặng đến 1 vạn 2 ngàn cân (7260 kg). Báo Thiên Tháp có chóp làm bằng đồng, được xây dựng 1 năm sau khi xây dựng xong chùa.
Trong chùa và tháp có rất nhiều vật hạng bằng đồng như tượng Phật, thiền trượng, giới đao hộ pháp nhà Phật…cho nên năm 1427, khi quân Minh xâm lược bị vây khốn trong thành Đông Quan (tức Hà Nội), chúng cố thủ để chờ quân tiếp viện, đã đến chùa cướp phá tàn bạo: tốc chóp tháp đồng, nấu chảy đại hồng chung và tất cả những gì bằng đồng, bằng kim loại để làm vũ khí (đúc súng) chống lại quân Việt Nam của Lê Lợi - Nguyễn Trãi mãi cho đến khi biết rõ là các đạo quân tiếp viện (Liễu Thăng, Mộc Thạnh) đều đã bị đánh tan cả, mới chịu đầu hàng.
Tuy nhiên, nhà Lê không để chùa bị bỏ hoang, cho trùng tu và đại trùng tu nhiều lần ngôi chùa vẫn giữ vị thế bậc nhất nước ta.
Trong chùa Lý Quốc Sư ngày nay vẫn còn lưu giữ bản gấm thêu sắc tự của đời Cảnh Hưng (tức vua Lê Hiển Tông 1740-1786) về chùa Sùng Khánh Báo Thiên Tự. Trên nền tháp bị phá, đã được tôn cao bằng 1 đàn tràng cũng gần nơi bây giờ là nhà thờ lớn.
Về lý do diễn biến đổi thay từ chùa và tháp Báo Thiên, 1 trong “Tứ đại khí” hay “Tứ bảo khí” của Việt Nam cổ (tạm dịch là 4 công trình to lớn và quí báu của nước Nam ta) thành ra Nhà Thờ Lớn, Tòa Tổng Giám mục Hà Nội, Hội đồng Giám mục Giáo hội Công giáo Việt Nam và các tu viện Công giáo xung quanh đó ngày nay, thì dò theo các quyển sách lịch sử đáng tin cậy như Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hà Thành thất thủ chính khí ca (khuyết danh) - bản trường ca về việc Hà Nội bị Pháp đánh chiếm lần thứ 2 (Nguyễn Hoàng Viên: Hoàng Diệu 1829-1882, NXB Đà Nẵng 2001, trang 54-66), Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim; Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam của Nguyễn văn Tân, NXB Văn hóa Thông tin , Hà Nội 1998; Từ điển đường phố Hà Nội - NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2000; Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm -Công giáo và Dân tộc, xuân 1996, Thành phố Hồ Chí Minh ; Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long -NXB văn hóa thông tin, Thời báo kinh tế Việt Nam, tập I, 2007… tôi suy ra những kết luận chuẩn xác như sau:
Số là sau khi được triều đình Huế chính thức nhượng 3 tỉnh miền Đông (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) theo hòa ước 1862 (Nhâm Tuất), đến 1867 (Đinh Mão) quân Pháp lại chiếm luôn 1 cách dễ dàng cả 3 tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên) nữa, soái phủ Sài-gòn có ý định chiếm nốt xứ Bắc Kỳ, để thiết lập vững chắc nền đô hộ của Pháp ở Viễn Đông.
Đô đốc Dupré viết thư sang Pháp:
Xứ Bắc Kỳ rất giàu và nối liền với nước Tàu. Đó là nơi để các tỉnh phì nhiêu Tây Nam xứ Trung Hoa tải sản vật sang cho ta. Việc chiếm cứ xứ này là vấn đề sinh tồn cho tương lai cuộc đô hộ của ta ở Viễn Đông”. (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương . NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang 117)
Pháp sử dụng hòa ước 1862 như 1 công cụ “tàm thực” (tằm ăn dâu) thần hiệu: “… Đạo Thiên Chúa được tự do truyền giáo … Người Pháp và người Tây Ban Nha được quyền mở 3 hải cảng Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên và tự do đi lại buôn bán trong nước ta…” (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương, NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang 87)
Năm 1871, có 1 thương gia người Pháp tên là Jean Dupuis đi tìm 1 con đường sông ở Bắc Kỳ giao thông với tỉnh Vân Nam của Tàu. J.Dupuis mộ lính Tàu và tập họp 1 băng đầu trộm đuôi cướp về đóng tại Hà Nội .
Quan ta không có quyền đuổi họ đi, bèn tâu về triều, xin phản kháng với đô đốc thống lĩnh xứ Nam Kỳ. Nhưng đô đốc Dupré chỉ 1 mực bênh vực Dupuis.
Tháng 5-1873, quan ta bắt giam đồ đảng người Nam và người người Tàu của Dupuis, thì Dupuis bảo sẽ dùng vũ lực phá nhà ngục, đánh tháo cho những kẻ bị bắt giam. Dupuis lại đòi mua muối, củi để tàu của mình dùng, nhưng quan ta không chịu, khiến tình hình càng hết sức căng thẳng.
Thuở ấy, Nguyễn Tri Phương được vua Tự Đức bổ nhiệm chức Bắc Kỳ Khâm mạng tuyền sát đổng sức đại thần (kinh lược sứ Bắc Kỳ), điều quân từ Sơn Tây về giữ thành Hà Nội.
Đáp lại thư phản kháng của triều đình Huế, soái phủ Sài-gòn còn giúp thêm cho J.Dupuis 3 vạn quan tiền.
Ngày 27-7-1873, Dupré đánh điện tín về bộ Hải quân:
Xứ Bắc Kỳ đã mở cửa thông thương nhờ công của Dupuis. Việc này có ảnh hưởng lớn đến thương mại của Anh, Đức, Mỹ. Ta cần phải chiếm xứ này trước, đừng để bọn giặc Tàu hay người Tây phương khác chiếm. Như thế ta sẽ đem lại cho nước Pháp 1 con đường buôn bán độc quyền. Tôi không xin thêm viện binh. Tôi sẽ đem quân lực sẵn có đi đánh. Sự thành công rất chắc chắn”. (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương, NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang 119).
Soái phủ Sài-gòn truyền lệnh cho trung tá [6] Francis Garnier mang 1 tiểu đội chiến thuyền ra Bắc Hà trước để điều tra vụ Dupuis, sau buộc triều đình Huế mở rộng xứ Bắc Kỳ cho người Pháp buôn bán. Ngày 17-9-1873, F.Garnier rời bến Sài-gòn và đến ngày 5-11, đem quân đến Hà Nội .
F.Garnier vừa mới gặp Nguyễn Tri Phương đã khiêu khích rất hách dịch, đòi đóng quân ngay trong hoàng thành, bắt buộc các địa phương phải để cho người Pháp thông thương trên toàn cõi Bắc Kỳ, nhưng Nguyễn Tri Phương cự tuyệt, lý do là vì chưa có lệnh triều đình. Thực sự Francis Garnier khiêu khích để châm ngòi cuộc chiến tranh:
Tôi nhất định đánh. Tôi sẽ đem 180 quân bản bộ hạ thành Hà Nội và bắt Nguyễn Tri Phương giải về Nam, làm tù binh” (Thư của Francis Garnier gởi về Soái phủ Sài-gòn cho Đô đốc Dupré ngày 10-11-1873).
Ngày 20-11-1873, đúng 6h sáng, Francis Garnier truyền lệnh hạ thành Hà Nội. Đại bác ta trên thành bắn ra không có tác dụng gì cả, đạn lướt qua đầu quân Pháp và rớt xuống cả mặt đất phía sau. Quân ta trong lúc hoảng hốt, quăng xuống vô số đá to, đá nhỏ mà chẳng trúng tên quân Pháp nào. Một đại bác của Pháp bắn vỡ cửa Đông, quân Pháp ào tới, ập vào thành. Đến 7h, cờ Pháp bay trên vọng lâu trung ương thành Hà Nội. Phò mã Nguyễn Lâm tử trận. Nguyễn Tri Phương trúng đạn bị thương nặng ở đùi, bị Francis Garnier bắt được. Francis Garnier phái các bác sĩ đến băng bó vết thương, đổ cháo và thuốc vào miệng ông để ông mau phục sức. Nhưng Nguyễn Tri Phương dứt cả băng bó, phun cháo và thuốc ra, nhất quyết tuyệt thực cho đến chết. Francis Garnier đem thông ngôn [7] đến ngồi bên giường ôn tồn an ủi. Nguyễn Tri Phương thản nhiên đáp:
Làm tướng phải chết và chết ở trận tiền không phải là cái chết nhục nhã” (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương, NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang123)
Ngày 20-12-1873, Nguyễn Tri Phương trút hơi thở cuối cùng, thọ 74 tuổi (1799-1873).
Francis Garnier lúc ấy đóng quân ở Trường Thi [8] đem toàn bộ ngôi chùa Sùng Khánh Báo Thiên Tự ở gần đó giao cho người thông ngôn của mình là Giám Mục Puginier làm nhà ở và nơi làm việc tạm thời. Giám Mục cho cất thêm mấy gian nhà gỗ trong khuôn viên chùa [9], còn Tòa Giám Mục thì vẫn đặt tại Sở Kiện. Trong mấy năm sau đó, tình trạng này vẫn không thay đổi vì chỉ đến ngày 21-12-1873 thì Francis Garnier bị quân Cờ Đen phục kích giết chết, quân Pháp rút về Nam, giao Hà Nội lại cho triều đình Huế cai quản theo hòa ước 1874 (Giáp Tuất).
Mãi cho đến 9 năm sau, Soái phủ Sài-gòn mới cử Henri Riviere [10] ra đánh chiếm Hà Nội lần thứ 2 (1882-Nhâm Ngọ). Lần này thì Tổng đốc Hà Ninh [11] là Hoàng Diệu (trọng trấn từ 1879) quá phẩn uất trước cảnh vua và triều đình bạc nhược chủ hòa [12], không quyết tâm phòng bị, còn các quan chức kế cận mình thì hèn nhát bỏ trốn trước giờ lâm trận, thậm chí phản bội đầu hàng, cho nên sau khi viết xong tờ di biểu, ông đã treo cổ tự tử trên cây ổi ở miếu Công Thần trg Hành Cung Kính Thiên.
Sau khi chiếm được Hà Nội, Henri Riviere sai phá hủy các cổng thành và nhiều đoạn tường thành, vần hết đại bác trên thành ném xuống hào. Các chùa miếu quanh thành đều bị phá phách, xô sập tất cả, 1 mặt để lấy gỗ gạch làm công sự [13], mặt khác là để thực hiện chủ trương triệt hạ nền văn hóa cổ truyền bản địa [14] và độc tôn Thiên Chúa giáomà thực dân Pháp vẫn được Vatican tuyên dương là Trưởng Nữ của Giáo hội. Cũng chính trong thời điểm này, Báo Thiên Tự bị phá hủy hoàn toàn và biến mất trên bản đồ Hà Nội.
Khu vực chùa và tháp Báo Thiên cũ được ước đoán theo các tư liệu lịch sử. Có thể chính điện của Chùa nằm trên nền đất nay là Nhà thờ Lớn và Tòa Tổng giám mục Hà Nội; Tháp Báo Thiên tọa lạc trên khoảng đất thuộc khu vực Tòa khâm sứ cũ. Khuôn viên vườn chùa (Thời Lý - Trần - Lê) kéo dài đến qua khu Chủng viện, Dòng mến Thánh giá ra sát Hồ Gươm.
Năm 1884, hàng ước Patenotre được ký kết, triều đình Nguyễn chấp nhận Pháp bảo hộ và chia Việt Nam thành 3 kỳ: Nam Kỳ là xứ thuộc địa (colonie) của Pháp, Bắc Kỳ là xứ bảo hộ (protectorat) của Pháp, Trung Kỳ được gọi là Đế chế An Nam (Empire d'An Nam) – sự thật thì cả ba kỳ đều chung 1 chế độ lệ thuộc, ngay trong đế chế An Nam thì vua mặc dù có những vị vua yêu nước muốn khôi phục độc lập chủ quyền cho Dân tộc, nhưng cuối cùng phải bị bắt bị đày, bởi “vua thì còn đó, nước thì không “, triều đình quan lại thì mặc dù cũng có những ông quan tận trung báo quốc nhưng cuối cùng phải bị giết bị tù bởi triều đình quan lại rút cuộc chỉ là con rối trong tay thực dân Pháp mà thôi, Giám Mục Puginier mới cho xây dựng lại bằng những vật liệu kiên cố Nhà Thờ Lớn và các tòa nhà khác của Nhà Chung rồi dời Tòa Giám mục [15] về đây.
Năm 1925, Tòa Thánh Vatican lập Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh ở Việt Nam (Delegue’ Apostolique16 F, Apostolic Delegate [16] E) và trụ sở ban đầu đặt tại Huế, đến năm 1951 mới dời ra Hà Nội và Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh được xây dựng ngay trên khu đất Phố Nhà Chung này. Đến năm 1957, sau khi hiệp định Geneve được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời chia thành 2 miền tập kết quân đội, đợi ngày hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Nhưng chính quyền miền Nam nhất định không chịu hiệp thương tổng tuyển cử, Tòa Thánh Vatican thì nhất quyết không thừa nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên chuyển Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh vào Nam (Sài-gòn) là nơi mà Tòa Thánh công nhận là “đại diện duy nhất” (!) cho nước Việt Nam…
*      *      *
Tái bút: Noel 2007, hàng trăm thanh niên Công giáo Hà Nội đã xông vào địa chỉ 42 phố Nhà Chung đang là trụ sở của Phòng Văn hóa Thông tin, Nhà Văn hóa & Trung tâm Văn hóa Thể thao quận Hoàn Kiếm[1], phát hàng vạn tờ truyền đơn đòi Nhà nước phải trả lại cho Tòa Tổng Giám Mục khu đất ở địa chỉ này mà họ cho là của Tòa Khâm sứ (cũ).
Họ trưng ra 1 bức thư của người đại diện Tòa Thánh Vatican khi rời Hà Nội vào Sài-gòn năm 1959 cám ơn Tòa Giám Mục Hà Nội đã cho mượn đất để xây dựng Tòa Khâm sứ (cũ).
Tôi không tham gia vào cuộc tranh chấp phức tạp này. Tuy nhiên tôi không thể không ghi lại lịch sử cụ thể của khu đất bao gồm cả địa chỉ 42 và 40 và toàn bộ phố Nhà Chung (hiện nay) trên đó tọa lạc Tòa Khâm sứ (cũ) và Tòa Tổng Giám Mục, Nhà Thờ Lớn Hà Nội và các tu viện, đan viện và các cơ sở Nhà chung khác nữa ở đây, đều nằm trong khuôn viên của ngôi chùa cổ gần 1000 năm và đồ sộ, nguy nga vào bậc nhất nước Nam xưa.
Ngôi chùa ấy đã là nạn nhân cực kỳ đau khổ của quân xâm lược nước ngoài: năm 1426, quân xâm lược Tàu (Vương Thông nhà Minh) đã phá đổ Đại Thắng Tư Thiên Tháp cao 12 tầng và cướp phá nghiêm trọng những vật hạng bằng đồng, bằng kim loại trong chùa để đúc súng, tuy nhiên sau đó nhà Lê đã cho trùng tu, đại trùng tu nhiều lần ngôi chùa sắc tứ này; năm 1873, quân xâm lược Pháp (F.Garnier) lấy ngôi chùa này giao cho Giám Mục Puginier dùng làm nhà ở và chỗ làm việc tạm khi Giám Mục về Hà Nội làm thông ngôn cho F.Garnier, tư lệnh cuộc đánh chiếm Hà Nội lần thứ I; năm 1882, sau khi đánh chiếm Hà Nội lần thứ II, quân xâm lược Pháp (H.Riviere) đã xô sập tất cả đền chùa xung quanh Hà Nội để lấy gạch gỗ đá xây dựng công sự; năm 1884, trên khu đất khuôn viên chùa cũ, Giám Mục Puginier cho xây dựng nên Nhà Thờ Lớn và dời Tòa Giám Mục về đây (1887)...
Chùa Sùng Khánh Báo Thiên Tự và Đại Thắng Tư Thiên Tháp (tức Báo Thiên Tháp 12 tầng cao) ngày nay không còn nữa, nhưng chứng tích của nó thì vẫn rành rành ra đó, không có gì để nghi ngờ bàn cãi. Chuyện xảy ra chỉ mới hơn 120 năm, đối với đời người thì có thể nói là dài, nhưng đối với lịch sử thì chẳng là bao năm cả.
Chùa và tháp Báo Thiên gắn liền với truyền thống chống xâm lược của dân tộc ta, với thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, với máu lệ của “những kẻ tôi trung tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương” [17] Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu.
----------------------------------------------------------------------
Chú thích:
[1] nay đã chuyển thành thư viện Hàng Trống.
[2] thờ Vạn Hạnh thiền sư (9?? – 1018 )
[3] Thượng Tọa Thích Bảo Nghiêm
[4] Báo Thiên Tháp Ảnh: Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam , NXB Văn hóa –Thông tin, Hà Nội 1998, tr 92.
[5] nguyên văn : “Bính thân, năm thứ 3, mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu khuyến nông, làm chùa Sùng Khánh Báo Thiên, phát 1 vạn 2 nghìn cân đồng để đúc chuông lớn. Vua (Lý Thánh Tông nổi tiếng thương dân như con) thân làm bài minh. Đinh dậu, năm thứ 4, mùa xuân, tháng giêng, xây bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên, cao vài chục trượng , 12 tầng…” (ĐVSKTT, tập I, NXB VHTT 2004, tr 318).
[6]capitaine de fregate, Trần Trọng Kim dịch là Đại úy, nhưng tôi (Lê Quang Vịnh ) nhận thấy quá thấp, bởi trg hải quân Pháp cổ, capitaine có nghĩa là chiến thuyền trưởng chứ không phải là đại úy như trg lục quân, hơn nữa có 3 cấp capitaine là Capitaine de corvette=thiếu tá hải quân; Capitaine de fregate=trung tá hải quân; Capitaine de vaisseau=đại tá hải quânèdo đó đề nghị dịch lại là trung tá hải quân (theo Larousse 1992).
[7] chính là Giám Mục Puginier (theo Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim)
[8] khoảng giữa Thư viện KHXH và Trường Kỹ nghệ Hà Nội (theo Hà Thành thất thủ ca, câu 8)
[9] theo Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long, tập I, 2007, trang
[10] Capitaine de vaisseau=Đại tá hải quân (xem chú thích số 6)
[11] Hà Ninh có 2 nghĩa trái ngược nhau: theo Trần Trọng Kim trg Việt Nam sử lược là Hà Nội + Ninh Bình, theo Nguyễn Hoàng Viên trg Hoàng Diệu 1829-1882 là Hà Nội + Ninh Bình + Hà Nam, nhưng theo Hoàng Xuân Hãn trg bản nghiên cứu về Chính Khí Ca thì lại là Hà Nội + Bắc Ninh.
[12] Vua Tự Đức nói: “Bàn hòa là người có công, bàn chiến là kẻ có tội…” (Đặng Duy Phúc: Thăng Long. Đông Kinh. Hà Nội , nơi hội tụ nhân tài. NXB Hà Nội 1996)
[13] Trg Hà Thành thất thủ ca có ghi: /Kính Thiên ngài ngự thếp vàng,/Tây ngồi đánh chén với đoàn thanh lâu./Các chùa miếu đâu đâu đấy tá,/Can gì Tây cũng phá tan tành? (câu 115-118)
[14] còn có 1 yếu tố tinh thần khác dẫn đến quyết định của H.Riviere phá hết các đình chùa ở Hà Nội mà Giáo sư Vũ Khiêu có nhắc tới: “Ngay từ giờ phút đầu tiên…các đình chùa đều đánh trống, gõ mõ, khua chiêng vang dội để khoa trương thanh thế áp đảo địch và hỗ trợ cho tinh thần quyết chiến của quan quân trong thành…” (Giáo sư Vũ Khiêu: Lễ tưởng niệm danh nhân yêu nước Hoàng Diệu nhân 170 năm sinh tại Văn Miếu Quốc tử giám Hà Nội ngày 30-10-1999. Nguyễn Hoàng Viên: Hoàng Diệu , NXB Đà Nẵng 2001, trang 216).
[15] tên gọi của Tòa Giám Mục đã thay đổi rất nhiều lần kể từ khi đạo Thiên Chúa được truyền vào Việt Nam. Năm 1679, Tòa Thánh chia Địa phận Đàng Ngoài thành 2: Địa phận Tây và Địa phận Đông Đàng Ngoài. Năm 1846, Địa phận Tây Đàng Ngoài lại được chia làm 2: Địa phận Tây Đàng Ngoài và Địa phận Nam Đàng Ngoài. Hà Nội nằm về phía Tây nên thuộc về Giáo phận Tây Đàng Ngoài. Tòa Giám mục lúc ấy được gọi là Tòa Giám Mục Tây Đàng Ngoài. Mãi đến năm 1924 mới lấy tên nơi đặt Tòa Giám Mục làm tên gọi các Giáo phận. Tòa Giám Mục Hà Nội có tên từ ấy (GHCGVN, niên giám 2004, trang 218)
[16] Apostolic Delegate: Khâm sứ Tòa Thánh (= vị đại diện của Đức Giáo Hoàng, không làm nhiệm vụ ngoại giao như apostolic nuncio mà chỉ làm nhiệm vụ của Giáo Hội là liên lạc với các giám mục ở những quốc gia không có quan hệ ngoại giao chính thức với Vatican (Nguyễn Đình Diễn: Từ điển Công giáo Anh Việt, NXB Tôn giáo , Hà Nội 2002, trang 49)
[17] Hồ Chí Minh : Lịch sử nước ta à Nước ta nhiều kẻ tôi trung/Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương /Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương /Cùng thành còn mất, làm gương để đời
Theo GIAO ĐIỂM ONLINE


Tìm hiểu về nền khoa cử Việt Nam thời xưa

Nguồn: http://www.reds.vn/index.php/lich-su/vinh-quang-dai-viet/3189-nen-khoa-cu-viet-nam-thoi-xua
Nói đến chế độ khoa cử ở nước ta thì phải tính đến một chặng đường dài mười thế kỉ đã diễn ra dưới thời phong kiến mà khoa mở đầu là năm Ất Mão(1075) đời Lí và khoa kết thúc vào năm Kỉ Mùi(1919) đời Khải Định.

Về thể lệ thi buổi đầu chưa ổn định, ở thời nhà Lí khoảng cách giữa các khoa thi thường là 12 năm.Tới khoa thi Kỉ Hợi(1239)đời Trần Thái Tông, lệ thi mới được định hẳn 7 năm một kì. Sang nhà Lê đời Thái Tông cho đổi lại 3 năm một kì. Lệ thi được chấp nhận suốt cả một thời kì Hậu Lê cho tới cuối thời nhà Nguyễn.

Khoa cử thời phong kiến gồm ba kì thi quan trọng bậc nhất được coi như ba cửa ải lớn để bước tới các bậc thang quan chức đầy danh vọng của các nho sĩ. Đó là thi Hương( Hương thí), thi Hội(Hội thí) và thi Đình(Đình thí).
I.THI HƯƠNG:
1.Quá trình học tập và điều kiện dự thi:
Ở nước ta khi xưa học trò bắt đầu đi học gọi là sơ học; học các sách Sơ học vấn tân(hỏi bến), Tam tự kinh(Kinh ba tiếng), Tứ tự kinh(Kinh bốn tiếng), Ngũ ngôn(Văn vần năm tiếng).Tập làm văn khi đầu là câu đối 2 tiếng, 3 tiếng, 4 tiếng…biết phân biệt vần trắc, vần bằng.Về đức dục học sinh phải lễ phép kính trên, nhường dưới, thực hiện câu “Tiên học lễ, hậu học văn”
Chừng 10 tuổi trở lên học Tứ thư, Ngũ kinh, học lịch sử, học Bách gia, Chư tử, Cửu lưu(Chín dòng tư tưởng Cổ đại: Nho gia, Đạo gia, Âm dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tung hoành gia, Tạp gia, Nông gia.);học lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng, tập làm văn, làm câu đối 7 tiếng gọi là câu đối thơ,8 tiếng trở lên là câu đối phú và tập làm văn nghĩa.
Hình thức trường làng phần lớn là trường tư(tư thục). Thầy giáo trường làng được mệnh danh là thầy đồ. Thầy đồ do dân tự chọn.Họ gồm những người hỏng thi, hoặc thi đỗ mà không muốn ra làm quan, người đã nghỉ việc..Nhà nước không đài thọ trường làng mà chỉ mở trường từ cấp huyện, phủ và tỉnh. Quan quản lí giáo dục ở huyện gọi là huấn đạo, ở phủ gọi là giáo thụ, còn danh hiệu đốc học là quan cấp tỉnh.
Buổi đầu của nhà Hậu Lê năm 1428, Lê Lợi xuống chiếu cho thiên hạ mở trường đào tạo nhân tài. Ở kinh đô có Quốc tử giám, ở địa phương thì có các phủ học, huyện học. Nhà vua tự mình lựa chọn những người tuấn tú cho vào tại các trường ở kinh đô. Nhà vua ra lệnh cho các quan giáo thụ, huấn đạo chọn rộng rãi con em người lương thiện cho vào học các trường phủ, huyện.
Đầu thời Lê Trung Hưng, học sinh trường huyện mỗi kì học phải nộp 5 tiền mạch gọi là tiền minh kinh. Loại trường này chỉ dành riêng cho học sinh đã có kiến thức khá.Hằng năm nhà trường đều tổ chức cho học sinh thi chất lượng vào tháng tư âm lịch gọi là khảo khóa. Khảo khóa gồm 3 kì, ai đậu cả 3 kì gọi là khóa sinh. Để chuẩn bị cho các kì thi hương các anh khóa này được miễn phu phen tạp dịch một năm và họ phải dự kì thi tiến ích vào tháng 11 âm lịch, nhằm kiểm tra sự tiến bộ của họ trước khi bước vào kì thi hương năm sau. Trước kì thi hương độ 4 tháng, các anh khóa lại phải vượt qua một kì thi sát hạch nữa. Thể lệ thi sát hạch phải do quan đốc ở tỉnh duyệt. Ai không đủ điểm ở kì thi này, sẽ không được thi hương. Tới kì thi hương nếu thực tế chất lượng học sinh khác với chất lượng khảo hạch, thí sinh không làm nổi bài, thậm chí bỏ giấy trắng thì các quan kiểm tra bị trừng phạt. Nếu có từ 5 thí sinh không đạt yêu cầu trở lên thì bị cách chức. Giáo thụ, huấn đạo có thể bị giáng mấy cấp.Hồ sơ của những người dự thi kì thi hương phải có giấy chứng thực lí lịch của địa phương và gửi về bộ Lễ trước kì thi một tháng. Bọn lưu manh, côn đồ tuyệt nhiên không được ghi vào danh sách này.Lệ này hồi xưa gọi là Bảo kết.
Vào thời cuối Lê những người còn ở trong quân tịch không được dự thi, con em phường chèo, phường hát cũng không được dự thi;triều đình nhà Nguyễn còn qui định những học sinh đang chịu tang bố và ông nội cũng không được dự thi.
2.Địa điểm và nội dung của cuộc thi:
Thi hương là kì thi của một tỉnh hoặc liên tỉnh để chọn người vào thi hội và thi đình.
Thời Lê người ta thấy có 9 trường thi:Hải Dương, Sơn Nam, Tam Giang, Kinh Bắc, An Bang, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An và Thuận Hóa.
Sang thời Nguyễn có 7 trường: Nghệ An, Thanh Hóa(gồm cả Ninh Bình);Kinh Bắc( Bắc Ninh, Bắc Giang);Thái Nguyên(gồm cả Cao Bằng, Lạng Sơn);Hải Dương(gồm cả Quảng Yên);Sơn Tây(gồm cả Hưng Hóa và phủ Hoài Đức);Sơn Nam.Trường Sơn Nam đặt tại làng Hiên Nam nên có tên gọi là trường Hiên Nam.
Năm 1813, Gia Long cho đặt thêm 2 trường:Quảng Đức (gồmThừa Thiên, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định,Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Định…) và Thăng Long( Hà Nội) gộp thêm cả trường Kinh Bắc, Sơn Tây,Thái Nguyên và Tuyên Quang.Đến năm 1825 sau khi có tỉnh Nam Định, trường Vị Hoàng(tức Sơn Nam cũ) được gọi là trường Nam Định.
Đến năm 1831,Minh Mạng lại cho định lại 2 trường thi ở Bắc kì:
1.Trường Hà Nội gồm 10 tỉnh:Hà Nội, Sơn Tây, Bắc Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Ninh Bình ,Thanh Hóa.
2.Trường Nam Định gồm 4 tỉnh: Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Yên.
Những người thi đỗ trong các kì thi hương chia làm hai loại: Loại một có các danh hiệu Cống cử, Cống sinh, Cống sĩ, Hương tiến, Hương cống. Những ông cử này sẽ được dự kì thi hội. Loại hai gọi là sinh đồ không được thi hội.Người đỗ đầu kì thi hương được gọi là giải nguyên hoặc đầu xứ.
Đến đời Minh Mạng(1820-1840) đổi các danh hiệu Cống sĩ, Hương tiến thành cử nhân và sinh đồ thành tú tài. Người nào đỗ tú tài hai khoa thì gọi là tú kép, ba khoa thì gọi là tú mền gọi tắt là ông mền, bốn khoa thì gọi là tú đụp gọi tắt là ông đụp.
Nội dung các kì thi Hương được qui định từ thời Lê Thánh Tông như sau:
-Kì 1:bài thi gồm 5 đề về tứ thư, ngũ kinh
-Kì 2:bài thi hỏi về chiếu, chế, biểu. Mỗi loại một bài viết theo lối cổ thể.Ngày xưa gọi là thể văn tứ lục,hay là văn biền ngẫu.Văn xuôi có hai vế, vế 6 tiếng, vế 4 tiếng đối nhau.
-Kì 3: làm một bài thơ và một bài phú. Thơ làm thể Đường luật, thất ngôn bát cú; phú cũng làm theo cổ thể( còn gọi là Tao uyển) qui định từ 300 tiếng trở lên.
-Kì 4: làm một bài văn gọi là văn sách, đề tài rút ra từ các kinh sử, tử, tập hỏi vềthế vụ(ý thức về việc giúp nước, cứu đời) đòi hỏi phải viết được 1000 tiếng trở lên.
Ngạch lấy đỗ với tỉ lệ Cống sĩ 1, Sinh đồ 10.Ví dụ: năm 1708 ngạch đỗ ở trường Sơn Nam 880 người trong đó Cống sĩ 80 và Sinh đồ 800. Đến năm 1774 gia ngạch cho trường Sơn Nam lây1100 người đỗ. Cống sĩ chỉ có 100 còn lại là Sinh đồ.

II.THI HỘI VÀ THI ĐÌNH:
1.Điều kiện, nội dung của thi Hội và thi Đình:
Đây là cửa ải thứ hai đầy gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang. Đây cũng là cuộc kiểm tra, đánh giá cao nhất đối với các bậc tài năng của đất nước.
Bởi vậy thi hội và thi đình được mệnh danh là đại tị(thi lớn). Cuộc thi lớn này người xưa quen gọi là đại khoa. Đại khoa gồm hai giai đoạn: thi hội và thi đình.Thi hội cũng có 4 kì, người đỗ cả 4 kì sẽ được cấp bằng tiền sĩ. Thi đình còn gọi là điện thí, tức là thi tại triều đình nhà vua. Vua trực tiếp hỏi bài. Thi đình chỉ để xếp loại các tiến sĩ đã đỗ ở kì thi hội mà thôi. Ở thời Lê có một số khoa, vì hoàn cảnh loạn lạc nên không tổ chức thi đình nhưng vẫn phân loại tiến sĩ.
Thi hội là kì thi quốc gia dành cho những người đã kinh qua thi hương và đã có bằng cử nhân và các giám sinh đã mãn khóa ở Quốc tử giám.Những người đỗ đạt trong các kì đại khoa như thế này đều có danh hiệu dành cho họ tùy thuộc vào các thời kì khác nhau trong lịch sử(Thái học sinh, Tiến sĩ).
Ngoài các khoa thi thường lệ triều đình còn mở các khoa thi đột xuất. Các khoa đặc biệt như thế gọi là Ân khoa.
Thái học sinh xuất hiện từ khoa thi Nhâm Thìn(1232) đời Trần Thái Tông cho đến khoa thi Canh Thìn(1400) đời Hồ Quý Li.
Tiến sĩ bắt đầu có từ khoa thi Nhâm Tuất(1442) dời Lê Thái Tông cho tới khoa thi kết thúc lịch sử khoa cử Nho giáo ở nước ta vào năm Kỉ Mùi( 1919) đời Khải Định.
Tiến sĩ chia làm 6 bậc:
1.Trạng nguyên
2.Bảng nhãn.
3. Thám Hoa.
Ba bậc đầu này thuộc đệ nhất giáp người đời mệnh danh là tam khôi, có thời gọi là tiến sĩ cập đệ.
4. Hoàng giáp thuộc đệ nhị giáp(chính bảng), cũng có thời gọi là tiến sĩ xuất thân.
5. Tiến sĩ thuộc đệ tam giáp, gọi là đồng tiến sĩ xuất thân.
6. Phó bảng là sản phẩm khoa cử thời Nguyễn mà bắt đầu xuất hiện từ khoa thi Kỉ Sửu(1829) đời Minh Mạng. Giữa tiến sĩ và phó bảng được qui định về tỉ lệ và ngạch đỗ.Ví dụ: ở khoa thi 1843 đời Thiệu Trị có 25 người đỗ, thì chỉ cho 10 người đỗ tiến sĩ, còn 15 phó bảng. Nếu tính 30 khoa thi ở Huế ( 1822-1892) lấy đỗ 560 người thì có 229 tiến sĩ, số còn lại là phó bảng.
Thi hội và thi đình cả hai kì thi này diễn ra trong vòng khoảng 8 tháng: mùa xuân thi hội đến mùa thu năm ấy thì thi đình. Còn phép thi hội cũng có 4 kì như thi hương. Kì thứ nhất cho thí sinh làm kinh nghĩa và kinh truyện mỗi thứ một bài, mỗi bài khoảng 1000 tiếng. Ở kì thứ tư, bài văn sách qui định tối thiểu 1600 tiếng.Riêng khoa thi nhà Hồ năm 1405 lại cho thi thêm kì thứ 5 hỏi về toán.Đó là nét đặc sắc của khoa cử nước ta.
Theo sách “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn, vào năm 1721, triều đình ra lệnh phải qui định mức điểm cho mỗi kì thi.Kì 1 thí sinh phải đạt 8 điểm trên 10 trở lên. Kì 2 phải đạt từ 7 điểm trở lên,kì 3, kì 4 phải đạt từ 5 điểm trở lên.Nguyên tắc chung là mỗi kì thi phải qua hai lần chấm: sơ khảo và phúc khảo, đủ điểm thi kì thứ nhất mới được thi kì thứ hai, rồi kì thứ ba, thứ tư cũng áp dụng theo luật đó. Người đỗ được xếp vào hai loại: đỗ chính bảng và đỗ phó bảng. Người đỗ chính bảng được vào thi đình và được hưởng quyền vinh quy bái tổ.
2.Cách thức tổ chức thi hội và thi đình:
Một số khoa thi buổi đầu(thí sinh còn ít ỏi) được tổ chức ngay ở trường Quốc tử giám. Cón về sau giống như thi hương, mỗi lần thi là một lần làm trường.Trường làm bằng tre lợp tranh,rào dậu xung quanh bằng nứa. Trường chia làm 3 khu vực: Khu nội liêm dùng cho khảo quan ở, khu ngoại biên là nơi ở của các quan giám thị và khu vực dành cho thí sinh .
Cả trường thi chia làm 8 ô vuông, có một con đường chạy dọc và con đường chạy ngang ở chính giữa để chia 8 ô thành 4 phần bằng nhau gọi là đường thập đạo. Giữa trung tâm đường thập đạo, người ta dựng một ngôi nhà gọi là nhà thập đạo.Tư nhà thập đạo trông ra phía trước có một thông ra ngoài gọi là cửa tiền. Trẹn đường thập đạo theo hàng ngang người ta dững 3 chòi canh: một cái ngay chính giữa và hai cái hai bên để quan giám thị quan sát thí sinh làm bài.
Bên ngoài là háng rào 4 mặt vây kín. Để đảm bảo an toàn cho cuộc thi, triều đình còn sai lính cưỡi ngựa qua lại canh phòng.
Khi cuộc thi tiến hành có các quan trông coi giám sát gọi là quan trường.
Sử sách nước ta không thấy ghi chép nhiều về quan trường thuộc ba triều đại Lí, Trần, Hồ. Nhưng từ thời Lê về sau chức danh quan trường của các khao thi được ghi chép đầy đủ ở bia tiến sĩ văn miếu mà nay ta còn đọc thấy gồm: Chánh chủ khảo, phó chủ khảo, một tri cống cử,sáu viên khảo quan( đồng khảo),hai viên chánh phó đề điệu, hai viên giám đằng lục. Luật thi hội không chấm trực tiếp bài làm của thí sinh, mà do quan giám đằng lục ở lại phòng, sao chép rõ ràng rồi đưa bản sao đi chấm. Trước khi đưa bài đi chấm hai viên giám đằng, một người đọc, một người soát xem có sai sót gì không. Công việc như vậy ở lại phòng gọi là đối độc. Quan đề điệu phát bài cho nội liêm chấm trước, ngoại biên chấm sau. Các quan nội liêm ngoài nhiệm vụ sơ khảo còn có nhiệm vụ theo dõi phát hiện mọi tệ lậu trường thi. Quan giam thị có chức trách giữ gìn an ninh cả phạm vi trường thi.
Quan trường ở kì thi đình, ấn tượng sâu sắc nhất đối với các sĩ tử vẫn là những vị hoàng đế và suốt trong lịch sử khoa cử nước ta, nhất là từ nhà Lê về sau thì các ông vua vẫn là người hỏi thi cuối cùng để các nho sĩ bước tới hoạn lộ và bậc thang danh vọng.
Thi đình được tổ chức ngay trong triều của nhà vua.
Đến ngày thi bộ Lễ phải biết đặt ngự tọa(chỗ vua ngồi ở giữa điện Cần Chánh). Sau lễ khai mạc bá quan văn võ chia ban đứng trực sẵn ở bên thềm điện, nghi vệ, cờ xí,trang hoàng lộng lẫy. Hồi trống thứ nhất nổi lên báo hiệu cho các quan văn, võ sửa mũ,áo và tiến sát cửa điện đứng chầu. Hồi trống thứ hai, kiệu vua ngự giá ra giữa điện. Quan tự ban(tổ chức) dẫn các quan văn chầu bên tả, các quan võ chầu bên hữu.Các thí sinh đứng sau hàng quan văn, khi vua ra phải lạy 5 vái. Từng thí sinh được gọi vào trước ngự tọa để nhận giấy bút và phòng làm bài.Vua chấm duyệt từng quyển của thí sinh. Ngày công bố kết quả, các quan tân khoa được tiếp đãi lễ triều ở điện Thái Hòa, các quan văn, võ chia ban mũ áo chỉnh tề chầu vua ở ngự điện. Các vị tân khoa được hướng dẫn quì ở phía trái thềm điện để lĩnh mũ, áo vua ban. Quan tuyên lễ xướng tên và yết bảng tải lầu Phu văn 3 ngày. Vua đãi yến các vị tân khoa tại sảnh đường bộ Lễ.Bộ Lễ phát cho mỗi tân khoa một cành trâm cài đầu, cho thăm vườn ngự uyển, cho cưỡi ngựa đi thăm phố xá,kinh thành,nghi thức này có thời chỉ dành cho tam khôi và vinh quy bái tổ.Triều đình ra lệnh cho dân chúng các địa phương có người đỗ tiến sĩ phải đón rước linh đình và dân hàng tổng phải làm đình nghè cho ở. Vậy nên danh từ ông nghè chỉ các tiến sĩ cũng từ đó mà ra.Triều đình còn cho dựng bia, chép sách lưu danh Tiến sĩ và để nêu gương muôn thuở.
S.T