BÀ TIẾN SĨ MẠC TRIỀU NGUYỄN THỊ DUỆ
PGS. TS Đỗ Thị Hảo
Hội văn nghệ dân gian Hà Nội
Thường mo-tip giả trai đi tòng quân hay đi thi dưới các triều đại phong kiến xưa chỉ thấy xuất hiện trong truyện kể dân gian hoặc truyện Nôm khuyết danh. Vậy mà dưới triều Mạc có một người con gái bằng xương bằng thịt hẳn hoi đã thi đỗ Tiến sĩ – đó là bà Nguyễn Thị Duệ người làng Kiệt Đặc nay là xã Văn An, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Nhà Mạc kể từ năm Nhâm Thìn (1592) khi Trịnh Tùng chiếm được Thăng Long, Mạc Mậu Hợp thua to rồi mất, cả triều đình và quân tướng nhà Mạc đều bỏ chạy lên biên giới phía Bắc để xây dựng cơ đồ mới, trấn Cao Bằng trở thành giang sơn riêng của nhà Mạc. Song những vùng phụ cận xuống mãi đến các xứ Bắc Giang, Hải Dương vẫn chịu ảnh hưởng bởi quyền lực của vương triều này. Mạc Kính Cung vẫn lên ngôi vua lấy niên hiệu là Càn Thống, lập triều đình với đầy đủ bá quan văn võ. Đặc biệt trong tình hình chính sự rối ren như vậy nhưng năm nào nhà Mạc cũng tổ chức các kỳ thi, đồng thời thực hành những chính lệnh riêng để đối đầu với triều đình Lê-Trịnh. Hơn ba mươi năm tính từ năm Tân Mao (1591) đến năm Ất Sửu (1626) nhà Mạc luôn chờ thời cơ để quay về diệt Trịnh, chiếm lại Thăng Long. Đã có lần những cố gắng này toan trở thành sự thật. Đó là năm Canh Tý (1600),mẹ của vua Mạc Mậu Hợp xưng là quốc mẫu, tập hợp được lực lượng khá hùng hậu lại bí mật liên hệ với các viên quan cũ là Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê tổ chức phản công chiếm được Thăng Long một cách nhanh chóng. Triều đình Lê Kính Tông phải bỏ chạy về Thanh Hóa. Sau nhờ Trịnh Tùng lập mẹo ngầm phá trong nội bộ nhà Mạc mới diệt được bà mẹ vua Mạc Mậu Hợp và đuổi triều Mạc trở lại Cao Bằng. Một sự kiện khác là khi biết tin Thái Phó Vạn Quốc Công Trịnh Xuân (con Trịnh Tùng) nổi loạn kéo quân vào nội phủ cướp hết voi ngựa, vàng bạc rồi phóng hỏa đốt cháy dinh thự. Đám cháy lan ra cả các phố ngoài thành Thăng Long. Vua Mạc nhân cơ hội nhường ngôi cho Khánh Vương Mạc Kính Khoan, trao cho quyền tiết chế binh mã. Mạc Kính Khoan (lấy niên hiệu là Long Thái) ào ạt tiến thẳng tới Gia Lâm nhằm giành lại Thăng Long. Song quân Mạc từ xa kéo về, đường đi vất vả, lại chưa được tập luyện thuần thục nên thực lực bị sa sút nhiều. Thêm vào đó, Trịnh Tráng lại là người cơ mưu và rất giỏi dùng binh, vì thế chỉ đánh một trận quân Mạc thua lại phải rút chạy về Cao Bằng để củng cố lực lượng.
Mặc dù nhà Mạc long đong, lận đận như vậy nhưng rất quan tâm đến việc học hành thi cử. Kể từ khi vua Mạc Đăng Dung lên ngôi, hàng năm đều tổ chức các kỳ thi hương thi hội rất chu đáo. Cũng chính từ khoa cử rất nhiều nhân tài đã được vinh danh như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng nguyên Giáp Hải hay Nguyễn Thuyến (ông tổ của Nguyễn Du)…Ở đất Cao Bằng Mạc Kính Cung vẫn giữ được truyền thống này, hàng năm vẫn mở khoa thi để chọn nhân tài. Song các sử gia phong kiến, theo quan niệm chính thống cho giai đoạn từ vua Càn Thống trở đi là “Ngụy triều” là không đáng chép vì vậy có nhiều vị tiến sĩ đã bị lãng quên, Nguyễn Thị Duệ có lẽ rơi vào trường hợp đó.
Nguyễn Thị Duệ cùng gia đình từ Hải Dương chạy theo nhà Mạc lên Cao Bằng. Vốn là người ham học lại thấy nhiều tấm gương ngay ở quê hương mình,làng mình như Nguyễn Doãn Khâm vốn chỉ là chàng lực điền, nhưng đã có công dùi mài kinh sử.
Ông đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1559) làm quan đến Đô Ngự sử tước Nghiêm Sơn Hầu. Hay như Nguyễn Công Phong mới 8 tuổi đã biết làm văn, ông đỗ Tiến sĩ Khoa Mậu Thìn (1568) đời Sùng Khang ( vua Mạc Mậu Hợp). Vì vậy, Nguyễn Thị Duệ đã giả trai đổi tên là Du, xin theo học ông thầy họ Cao cũng là người Hải Dương. Năm Bính Thìn nhà Mạc mở khoa thi hội ở Cao Bằng mấy thầy trò cùng đi thi. Kết quả ông thầy họ Cao đỗ thứ hai còn cậu Du (tức Nguyễn Thị Duệ) đỗ đầu bảng. Dân gian truyền tụng rằng, đêm trước buổi tiệc mừng các vị tân khoa vua Mạc được báo mộng có một ông Nghè là gái. Chính ở bữa tiệc này Nguyễn Thị Duệ buộc phải lộ rõ thân phận mình. Rất may vua Mạc không trị tội “khi quân” mà đưa bà vào cung để dạy dỗ phi tần và vua có điều kiện để hỏi han, chăm sóc.
Nhà Mạc có thời gian khá dài yên ổn trên đất Cao Bằng. Nguyễn Thị Duệ cũng có dịp về thăm lại quê cha đất tổ làng Kiệt Đặc, Hải Dương. Bấy giờ quân Trịnh huy động lực lượng khá lớn tới mười vị quận công đánh lên phía Bắc, nhà Mạc bất ngờ không kịp trở tay nên tổn thất rất lớn. Trước tình thế như vậy, Nguyễn Thị Duệ không về quê cũng không trở lại Cao Bằng mà tìm chỗ nương thân nơi cửa phật để tránh mọi tục lụy ở đời. Song cuộc gặp gỡ thật tình cờ với Nguyễn Quý Nha, một vị trọng thần dưới thời Lê – Trịnh vốn mến mộ bà đã lâu, lại là đồng hương với Nguyễn Thị Duệ, khiến cuộc đời bà rẽ sang ngả mới. Nguyễn Quý Nha đã làm một tờ khải dâng lên chúa Trịnh Tráng, và thế là chỉ ít lâu sau Nguyễn Thị Duệ đã trở thành một bà giáo dạy dỗ cung tần cả ở trong cung vua lẫn phủ chúa.
Với học lực uyên bác và đạo đức cao thượng, Nguyễn Thị Duệ dạy cho mọi người biết giữ gìn lễ nghi, hướng dẫn họ làm văn đọc sách. Mỗi lần chúa hỏi han những điển tích trong kinh sử bà đều giảng giải cặn kẽ và lựa lời khuyên chúa nên theo những lời răn dạy của thánh hiền, khoan sức cho dân. Trước những thiên tai liên tiếp xảy ra như nước sông Nhị dâng cao ngập cả cửa Nam kinh thành Thăng Long, đê Yên Duyên, Khuyến Lương đều vỡ, nhật thực, nguyệt thực liên tiếp xảy ra. Núi Hoàng Sơn (Thanh Hóa), núi Kẽm Trống (Ninh Bình), tự nhiên sụt lở. Bà Duệ nhân cơ hội đó khuyên nhà Chúa lên chỉnh đốn chính sự để yên lòng dân. Quả nhiên, theo lệnh chúa Trịnh, các quan đi thanh tra đã phát hiện ra nhiều bọn tham quan ô lại nhũng nhiễu dân lành. Không chỉ chúa Trịnh ngay cả vua Lê Thần Tông cũng rất kính phục bà. Nhà vua phong cho bà là Nghi Ái Quan, cho phép được bình duyệt những bài thi Hội, thi Đình của các sĩ tử. Ngay những người nổi tiếng đương thời như: Giang Văn Minh, Nguyễn Đăng Cảo, Khương Thế Hiền…cũng thường xuyên tiếp xúc với bà. Sách “Công dư tiệp ký” của Vũ Phương Đề chép việc Giang Văn Minh trước khi đi thi sứ phương Bắc hay Nguyễn Minh Triết (em con dì bà Duệ) lên Mục Nam quan đón tiếp sứ giả cũng đều tới đàm đạo với bà. Nguyễn Thị Duệ cũng từng xin với vua Lê cho mở trường dạy học, nhưng ước nguyện của bà không được chấp nhận. Thực tế gần 100 năm sau mãi đến giữa thế kỷ XVIII nước ta mới có bà Đoàn Thị Điểm mở trường dạy học ở Chương Dương. Từ những trường hợp “bạch ốc xuất công khanh” (từ chốn nghèo khổ xuất hiện người tài, làm quan to trong triều) Nguyễn Thị Duệ mong muốn đào tạo được đông đảo các sĩ tử ở chốn hương thôn rộng lớn. Bà đã giúp tử hội Tư Văn huyện Chí Linh quê bà cứ mỗi tháng hai lần gửi văn bài của các sĩ tử về Thăng Long để bà chấm điểm. Cách dạy này đã đem lại kết quả thật đáng trân trọng, Nguyễn Quang Trạch người làng Kiệt Đặc, Chí Linh đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Đinh Mùi (1667) dưới triều vua Lê Thần Tông.
Về cuối đời mặc dù vua Lê và chúa Trịnh Tạc đều cố lưu Nguyễn Thị Duệ ở lại kinh sư nhưng bà cương quyết chối từ. Nguyễn Thị Duệ được phong là lễ sư, nhà chúa còn cấp thêm lộc điền và cho làng Kiệt Đặc quê bà được miễn sưu thuế và phu phen tạp dịch.
Hôm nay, trở về Kiệt Đặc “Tinh phi cổ tháp” được xây bên mộ bà Tiến sĩ triều Mạc không còn nữa, tấm bia lớn khắc những bài thơ tả tám cảnh đẹp Chí Linh (Chí Linh bát vịnh) của bà trải qua năm tháng mưa gió đắp nổi cũng chữ còn chữ mất. Song trong tâm thức dân gian, bà Tiến sĩ triều Mạc Nguyễn Thị Duệ, người đã phục vụ trải ba vương triều: Nhà Mạc – Vua Lê – Chúa Trịnh đã trở thành Bà chúa Sao Sa được thờ ngay ở chùa làng. Và từ những năm 90 của thế kỷ trước bà Tiến sĩ triều Mạc Nguyễn Thị Duệ đã trở thành đề tài một luận văn Tiến sĩ tại Hoa Kỳ.
Nguồn: Nhà Mạc ở Cao Bằng một thời hưng thịnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét